Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT TRONG TỬ VI

     Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hoặc một tình trạng. Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đầy nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt. Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả ?
     Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy chòm sao chính là 14 vị :
Tử Vi – Thiên Cơ –Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ – Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương – Thất Sát – Phá Quân.

     Sau đây là các phụ tinh như :
Văn Xương – Văn Khúc – Tả Phụ – Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Ma – Lộc Tôn – Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền– Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kị – Thiên Không – Địa Kiếp – Thiên Khương – Thiên Sứ – Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Tri – Phương Các – Thai Phụ – Phong Các – Hồng Loan – Thiên Hỉ – Tam Thai – Bát Toạ – Thiên Hình – Thiên Diệu – Đẩu Quân.

   Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị ;     
   Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
   Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao : Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ – Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trú – Thiên Giải Địa Giải – Giải Thần – Địa Không – An Quang – Thiên Quí – Cò Thần – Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.

    Tổng cộng lại là 104 vị.
    Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính  bản  đã  sang  bên  ta,  nên  bản  lưu  bên  chính  quốc  bị  ghi  chép  thiếu  sót.  Nếu  vậy,  tại  sao không có những lời giải thích rõ ràng về các sao : Giải Thần – Địa Giải – Thiên Trú – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi. Tính (sao) còn gọi là Diệu. Tỉ dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính), nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.

   Sách đẩu số mệnh lý cho rằng : Tả Phụ – Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc – Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao :
Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt – gọi là Thiên diệu.
Hóa Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kị gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa. Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hoả, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là : Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử – Tướng, Phủ – Tướng,Nhật – Nguyệt, Tả – Hữu, Xương – Khúc, Không – Kiếp, Hoả – Linh, Dương – Đà, Khôi – Việt.

Tam hợp là gì ?
 Mỗi là số tử vi có 13 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào ? Phải theo nguyên tắc sau : Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
Lục xung là gì ?
 Tí – Ngọ xung – Sửu - Mùi xung – Dần -Thân xung – Mão –Dậu xung – Thìn –Tuất xung– Tị –Hợi xung.
 Thủ – đồng là gì ?
 Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
Lâm – Nhập là gì ?
 Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
Miếu – Hãm là gì ?
 Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi la Hãm, đứng đúng chỗ gội là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên, miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi.
Tỉ dụ : vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.

Toạ – Cứ là gì ?
 Toạ chỉ sao tốt ngồi tại cung nào. Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
Bản phương – Hợp phương – Lân phương là gì ?
 Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Tỉ dụ : Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
 Còn Lân phương là cung bên cạnh. Tỉ dụ : Thìn và Dần là lân phương của Mão.
Triều và xung là gì ?
 Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu  cùng  một  trường  hợp  trên  gọi  là  Xung.  Riêng  sao  Thái Âm,  Thái  Dương  không  dùng  chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
Giáp – Chiếu – Hiệp là gì ?
 Các sao tốt đóng hai cung bên canh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp. Tỉ dụ : giáp Nhật– Nguyệt, giáp Tả – Hữu.
 Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới. Tỉ dụ : Ngọ chiếu Tí, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
 Về câu / Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp/ không thể áp dụng cho bất cứ sao nào. Tỉ dụ : Thái Âm , Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.

TỨ YẾU THẬP DỤ BÁT PHÁP

Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a) Cát hung – b) Hư thực – c) Chủ khách – d) Cường nhược.
Cát hung.
 Sao có sao thiện, sao ác ; thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào ?
 Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.

Chia chủ khách ra sao ?
Lấy các sao ở bản phương lam chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cùng vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
 Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo ngược thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.

Thập dụ là gì ?
 là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cung với cát cung tam hợp và cung xung chiếu :
1.   Bản phương tốt (cát) là / do nội tự cường/ mạnh từ bên trong mạnh ra.
 2.   Bản phương xấu (hung) là /tòng căn tự phạt/ hư từ gốc rễ.
 3.   Cung xung chiếu tốt là /nghênh xuân tiếp phúc/ chờ xuân đón phúc.
4.   Cung xung chiếu xấu là /đương đầu ác bổng/ giơ đầu chịu búa đập.
 5.   Cung tam hợp tốt là /tả hữu phùng nguyên/, lắm chân tay giúp đỡ.
 6.   Cung tam hợp xấu là /tả hữu thụ địch/, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
 7.   Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là /lưỡng lân tương phù/ hai bên hàng xóm phù trợ. 8.   Lân phương xấu là /lưỡng nan tương vũ/, hai bên hàng xóm mưu hại.
 9.   Cả bốn cung cùng tốt là /thiên tường vàn tập/, mây ngũ sắc kéo về chầu.
10. Cả bốn cung cùng xấu là /tứ diện sở ca/ bị vây tứ phía không lối thoát.

Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem số. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to nhỏ, đẹp xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của số mệnh nói cho hết thì nhiều vô cung nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau :
A.  Thành phá tứ pháp : phàm lệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp :
-    Khoa Quyền Lộc Quý thì kể như các cục thành, đáng phê mấy chữ /giao Long đắc vận vũ/ (con rông gập mây nước).
-    Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh Dương Đà thì kể như phá cách loại /miêu nhi bất tú/(chỉ nẩy mầm mà không xanh tốt).
-    Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi /bạch khuê hữu điềm/ (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ). Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thi kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như /hỗn kim phác ngọc/ (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy khỏi đá).

B.  Cứu Khí tứ pháp : Phàm mệnh thân cung mà các xung cung chiếu tam hợp đều có hung nếu :
-  Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa /cửu hạn phùng cam vũ/.
-   Gặp Hoả Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo gì được, /hử mộc nan điêu/.
 -   Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà /thực kê lặc/.
-  Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách /thủ tàu bảo khuyết/, nấn ná đợi thời.
Trên đây là các thuật ngữ cần thiết của người nghiên cứu Tử Vi được trích  trong (Tử Vi Đẩu số toàn thư của Vũ Tài Luc). Bạn đọc nào nghiên cứu Tử Vi xin hãy lưu ý và hiểu thấu các thuật ngữ trên đây trước đã.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét